Các vấn đề về con nuôi thực tế theo quy định của pháp luật

Tầng 3, 70 Hoàng Diệu, Phường 13, Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh

infotruongminhngoc@gmail.com

logo

Hotline 24/7 093 694 1658 0939 593 486

Các vấn đề về con nuôi thực tế theo quy định của pháp luật
13/11/2024 08:50 AM 905 Lượt xem

    Để phát sinh quan hệ cha mẹ nuôi, con nuôi thì việc nhận con nuôi phải được đăng ký theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp tuy đã nhận nuôi và chăm sóc , nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con, nhưng người nhận con nuôi lại không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Vậy, trong trường hợp này quan hệ cha mẹ nuôi, con nuôi có được xác lập không?

    Hãy cùng Luật Trường Minh Ngọc tìm hiểu về vấn đề này như sau:

    Quy định của pháp luật về việc nuôi con nuôi

    Quy định của pháp luật về việc nuôi con nuôi (Ảnh minh hoạ)
    Quy định của pháp luật về việc nuôi con nuôi (Ảnh minh hoạ)

    Quy định về nuôi con nuôi đã được quy định từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Cụ thể, vấn đề nuôi con nuôi được quy định qua từng thời kỳ như sau:

    Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959: Việc nhận nuôi con nuôi phải được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của người nuôi hoặc của đứa trẻ công nhận và ghi vào sổ hộ tịch (Điều 24)

    Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986: Việc nhận nuôi con nuôi do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ tịch (Điều 37)

    Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: Việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và ghi vào Sổ hộ tịch (Điều 72)

    Luật Nuôi con nuôi năm 2010: Khi xét thấy người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của Luật này thì Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức đăng ký nuôi con nuôi, trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng, tổ chức giao nhận con nuôi và ghi vào sổ hộ tịch trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày có ý kiến đồng ý của những người đồng ý cho nhận con nuôi.

    Như vậy, theo những quy định nói trên thì việc nuôi con nuôi được xem là hợp pháp khi được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    Trường hợp nuôi con nuôi nhưng không đăng ký mà vẫn hợp pháp?

    Trường hợp nuôi con nuôi không đăng ký mà vẫn hợp pháp (Ảnh minh hoạ)
    Trường hợp nuôi con nuôi nhưng không đăng ký mà vẫn hợp pháp (Ảnh minh hoạ)

    Quy định là vậy, thế nhưng trên thực tế có rất nhiều trường hợp đã nhận nuôi và chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con, nhưng người nhận con nuôi lại không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thực tế này xảy ra là do sự thiếu hiểu biết về pháp luật, đặc biệt là trường hợp nuôi con nuôi ở các thời kỳ trước đây. Vậy, những trường hợp nào nuôi con nuôi không đăng ký mà vẫn hợp pháp?

    Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế. Trong đó tại tiểu mục 1, mục A phần III của Thông tư có quy định: Con nuôi được thừa kế phải là con nuôi hợp pháp, tức là việc nuôi con nuôi phải được Ủy ban nhân dân cơ sở nơi trú quán của người nuôi hoặc của đứa trẻ công nhận và ghi vào sổ hộ tịch (Điều 24 Luật hôn nhân và gia đình). Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp nhân dân chưa hiểu pháp luật cho nên chưa xin chính quyền công nhận và đăng ký vào sổ hộ tích việc nuôi con nuôi. Trong trường hợp này, nếu việc nhận con nuôi là ngay thẳng, cha mẹ đẻ của đứa trẻ hoàn toàn tự nguyện, việc nuôi dưỡng đứa trẻ được bảo đảm, thì coi là con nuôi thực tế. Con nuôi và bố mẹ nuôi có quyền thừa kế lẫn nhau. Con nuôi (hợp pháp hay thực tế) không được thừa kế theo luật đối với di sản của bố mẹ đẻ và anh, chị, em ruột.

    Tại điểm a mục 6 của Nghị quyết 01/NQ - HĐTP ngày 20 tháng 1 năm 1988 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, hướng dẫn cụ thể như sau:

    “a.Những điều kiện về nuôi con nuôi đã được quy định trong các Điều 34, 35, 36 và 37 nhưng trước khi Luật này được ban hành thì những điều kiện đó chưa được quy định đầy đủ. Vì vậy, những việc nuôi con nuôi trước khi ban hành Luật mới vẫn có giá trị pháp lý, trừ những trường hợp nuôi con nuôi trái với mục đích xã hội của việc nuôi con nuôi (như: nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động hoặc để dùng con nuôi vào những hoạt động xấu xa, phạm pháp). Nếu việc nuôi con nuôi trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý do luật định

    Con nuôi thực tế (Ảnh minh hoạ)

    Đối với trường hợp người dân tộc thiểu số, Điều 17 Nghị định 32/2000/NĐ – CP quy định như sau:

    Điều 17. Các trường hợp nhận nuôi con nuôi trước ngày 01 tháng 01 năm 2001 nhưng không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền

    Những trường hợp nhận nuôi con nuôi được xác lập trước ngày 01 tháng 01 năm 2001, ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực pháp luật, mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng có đủ điều kiện theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và trên thực tế, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đã được xác lập, các bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, thì được pháp luật công nhận và được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký nuôi con nuôi. Nếu có tranh chấp liên quan đến việc xác định quan hệ giữa cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi thì do Toà án giải quyết.

    Tiếp đến, theo quy định tại Điều 50 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cũng có các quy định về công nhận con nuôi thực tế như sau:

    Điều 50. Điều khoản chuyển tiếp

    1. Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: 

    a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi; 

    b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống;

    c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.

    Như vậy, từ những quy định trên có thể thấy, vẫn có trường hợp nuôi con nuôi nhưng không đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền mà vẫn được công nhận – đó được xem là con nuôi thực tế.

    Dịch vụ Luật sư tranh tụng của Luật Trường Minh Ngọc

    >>> Xem thêm: Thủ tục nhận nuôi con nuôi trong nước

    >>> Xem thêm: Thủ tục xác định cha, mẹ cho con

    Trên đây là những chia sẻ của Luật Trường Minh Ngọc về vấn đề “Con nuôi thực tế theo quy định của pháp luật”. Bài viết chỉ mang tính tham khảo, không phải là ý kiến tư vấn để giải quyết một vụ việc cụ thể. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào cần được giải đáp, vui lòng liên hệ cho chúng tôi:

    Liên hệ qua Hotline:

    - Hotline 1: 093 694 1658 (zalo)

    - Hotline 2: 0939 593 486 (zalo)

    Liên hệ qua Facebook: Luật Trường Minh Ngọc - Luật sư của bạn

    Liên hệ trực tiếp tại văn phòng: Tầng 3, 68 – 70 Hoàng Diệu, Phường 13, Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh

    Liên hệ qua email: infotruongminhngoc@gmail.com

    *Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách pháp luật. Mọi thắc mắc, góp ý xin vui lòng liên hệ về email: infotruongminhngoc@gmail.com

     

    Zalo
    Hotline