Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015

Tầng 3, 70 Hoàng Diệu, Phường 13, Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh

infotruongminhngoc@gmail.com

logo

Hotline 24/7 093 694 1658 0939 593 486

Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015
07/01/2025 10:32 AM 238 Lượt xem

    Có những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện nhưng được loại trừ trách nhiệm hình sự. Vậy đó là những trường hợp nào?

    Hãy cùng Luật Trường Minh Ngọc tìm hiểu về vấn đề này như sau:

    Loại trừ trách nhiệm hình sự là gì?

    Loại trừ trách nhiệm hình sự là gì?
    Loại trừ trách nhiệm hình sự là gì?

    Loại trừ trách nhiệm hình sự là việc một người không phải chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của họ không bị xem là tội phạm và không bị xem là có án tích.

    Theo quy định Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự sẽ bao gồm 02 nhóm:

    • Nhóm các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, do vậy vấn đề trách nhiệm hình sự không được đặt ra, bao gồm: Sự kiện bất ngờ; tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự;
    • Nhóm các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đủ hoặc có thể đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng có những “căn cứ” làm cho hành vi gây thiệt hại có tính hợp pháp, không còn tính trái pháp luật hình sự nên không coi là tội phạm bao gồm: phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; gây thiệt hại trong khi bắt giữ tội phạm; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ và thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên.

    Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017

    Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017
    Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017

    Sự kiện bất ngờ (Điều 20 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

    Điều 20 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Bản chất pháp lý của trường hợp sự kiện bất ngờ:

    • Người thực hiện hành vi không có lỗi do họ không tự lựa chọn thực hiện hành vi gây thiệt hại;
    • Họ đã không thấy trước được tính chất nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra;
    • Hoàn cảnh khách quan không cho phép họ có thể thấy trước hậu quả của hành vi. Họ cũng không có nghĩa vụ phải thấy trước việc gây ra hậu quả đó;
    • Do vậy, tính có lỗi – cơ sở để xem xét một hành vi có là tội phạm không, có cần phải xử lý hình sự không đã không được thỏa mãn.

    Như vậy, trong trường hợp sự kiện bất ngờ, việc chủ thể đã không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình đã gây ra là do khách quan. Đây chính là điểm khác biệt so với các trường hợp như sự kiện bất khả kháng, tình trạng không thể khắc phục được hoặc đối với trường hợp lỗi vô ý vì cẩu thả.

    Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

    Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Do đó, người thực hiện nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh thì Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh.

    Theo quy định của điều luật, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do đang trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác.

    Như vậy, có 02 dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, đó là:

    • Dấu hiệu y học – điều kiện cần;
    • Dấu hiệu tâm lý – điều kiện đủ.

    Cả hai dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, dấu hiệu này là tiền đề của dấu hiệu kia và ngược lại. Có nghĩa rằng họ phải thỏa mãn đồng thời hai dấu hiệu trên, thì mới được coi là người không có năng lực trách nhiệm hình sự.

    Phòng vệ chính đáng (Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

    Khoản 1 Điều 22 Bộ Huật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

    Một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi thoả mãn các dấu hiệu sau:

    • Có hành vi tấn công đang hiện hữu, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của người phòng vệ hoặc của người khác (cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng);
    • Hành vi phòng vệ gây thiệt hại cho người xâm phạm là cần thiết (nội dung và phạm vi của phòng vệ chính đáng).

    Lưu ý: Hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được hiểu là:

    • Là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này;
    • Đây là trường hợp người phòng vệ do đánh giá sai tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm, do đó người phòng vệ đã dùng những phương tiện và phương pháp gây ra thiệt hại quá đáng cho người xâm hại mà tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại cũng như hoàn cảnh cụ thể chưa đòi hỏi phải dùng các phương tiện và phương pháp đó.

    Người vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự do lỗi vượt quá của mình. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự của họ được giảm nhẹ hơn so với các trường hợp bình thường. Mức độ trách nhiệm hình sự được giảm nhẹ nhiều hay ít phụ thuộc vào mức độ vượt quá giới hạn phòng vệ và các trường hợp giảm nhẹ khác.

    >>>Xem thêm: Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

    Tình thế cấp thiết (Điều 23 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

    Khoản 1 điều 23 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

    Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.

    Để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu trách nhiệm hình sự thì phải có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    • Phải có sự đe dọa hiện hữu và thực tế xâm phạm đối với lợi ích được pháp luật bảo vệ (tức là lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của bản thân người thực hiện hành vi hay của người khác);
    • Hành vi gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để khắc phục sự nguy hiểm;
    • Thiệt hại trong tình thế cấp thiết gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

    Lưu ý: Vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết được hiểu là:

    • Là tình trạng một người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là gây thiệt hại bằng hoặc lớn hơn thiệt hại cần ngăn ngừa;
    • Đây là trường hợp chủ thể có cơ sở để hành động trong tình thế cấp thiết nhưng đã vượt quá phạm vi cho phép. Cũng giống như vượt quá yêu cầu của phòng vệ chính đáng, người có hành vi gây thiệt hại do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Khoản 2 Điều 23 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 khẳng định: trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Tuy nhiên, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có quy định một cách cụ thể, rõ ràng: vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là một trong những tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự – cơ sở để giảm nhẹ hình phạt trong phạm vi của khung luật tương ứng.

    Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

    Khoản 1 điều 24 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.

    Để được coi là gây thiệt hại trong bắt giữ người phạm tội là một trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, hành vi bắt giữ phải thỏa mãn các điều kiện sau:

    • Hành vi bắt giữ phải thuộc về các chủ thể có thẩm quyền bắt giữ người phạm tội; Hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là biện pháp cuối cùng, không còn cách nào khác để bắt giữ người phạm tội;
    • Hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là cần thiết.

    Lưu ý: Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Tuy nhiên, đối với trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết cho người bị bắt giữ, thì người gây thiệt hại tuy phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng pháp luật hình sự Việt Nam vẫn xác định đó là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

    Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

    Điều 25 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.

    Để coi rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ là một trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, hành vi gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải thỏa mãn các điều kiện sau:

    • Hành vi gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải nhằm mục đích đem lại lợi ích cho xã hội;
    • Lĩnh vực của hành vi gây thiệt hại chỉ giới hạn trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ;
    • Người gây ra thiệt hại đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa.

    Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

    Điều 26 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định: Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 của Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể:

    “Điều 421. Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược

    1. Phạm tội trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.”

    “Điều 422. Tội chống loài người

    1. Phạm tội trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.”

    “Điều 423. Tội phạm chiến tranh

    1. Phạm tội trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.”

    Dịch vụ Luật sư tư vnLuật sư bào chữa Hình s của Luật Trường Minh Ngọc

    >>> Xem thêm: Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ bị xử phạt như thế nào?

    >>> xem thêm: Người phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ bị xử phạt như thế nào?

    Trên đây là những chia sẻ của Luật Trường Minh Ngọc về Nhng trưng hp loi tr trách nhim hình s theo B lut Hình s 2015. Bài viết chỉ mang tính tham khảo, không phải là ý kiến tư vấn để giải quyết một vụ việc cụ thể. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào cần được giải đáp, vui lòng liên hệ cho chúng tôi:

    Liên hệ qua Hotline:

    - Hotline 1: 093 694 1658 (zalo)

    - Hotline 2: 0939 593 486 (zalo)                   

    Liên hệ qua Facebook: Luật Trường Minh Ngọc

    Liên hệ trực tiếp tại văn phòng: Tầng 3, 68 – 70 Hoàng Diệu, Phường 13, Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh

    Liên hệ qua email: infotruongminhngoc@gmail.com

    *Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách pháp luật. Mọi thắc mắc, góp ý xin vui lòng liên hệ về email: infotruongminhngoc@gmail.com

     

     

    Zalo
    Hotline