Trường hợp nào được miễn trách nhiệm hình sự?

Tầng 3, 70 Hoàng Diệu, Phường 13, Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh

infotruongminhngoc@gmail.com

logo

Hotline 24/7 093 694 1658 0939 593 486

Trường hợp nào được miễn trách nhiệm hình sự?
11/10/2024 11:26 AM 468 Lượt xem

    Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định quan trọng trong pháp luật hình sự thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội khi thoả mãn các điều kiện theo quy định pháp luật. Với mục đích khuyến khích, tạo cơ hội giúp người phạm tội tự giáo dục, cải tạo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội nhưng vẫn đáp ứng mục tiêu đấu tranh, phòng chống tội phạm. Vậy trường hợp nào được miễn trách nhiệm hình sự?

    Hãy cùng Luật Trường Minh Ngọc tìm hiểu về vấn đề này như sau:

    Miễn trách nhiệm hình sự là gì?

    Miễn trách nhiệm hình sự (Ảnh minh hoạ)
    Miễn trách nhiệm hình sự (Ảnh minh hoạ)

    Miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp một người đã thực hiện tội phạm nhưng do đáp ứng các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó.

    Đây là một trong những chế định quan trọng trong Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Chế định này được áp dụng đối với người phạm tội trong những điều kiện nhất định mà Cơ quan tiến hành tố tụng thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

    Các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự

    Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, miễn trách nhiệm hình sự có 02 trường hợp:

    - Trường hợp 1: Người phạm tội đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự;

    - Trường hợp 2: Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

    Người phạm tội đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự

    Đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp một người có hành vi phạm tội sẽ được xem xét miễn trách nhiệm hình sự mà không cần có bất kỳ một điều kiện nào khác kèm theo khi có các căn cứ thỏa mãn quy định này.

    Trường hợp đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự (Ảnh minh hoạ)
    Trường hợp đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự (Ảnh minh hoạ)

    04 trường hợp đương nhiên miễn trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể tại Điều 16, Khoản 1 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

    Thứ nhất, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

    Theo Điều 16 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Đây là trường hợp người phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng tuy không có gì ngăn cản.

    Thứ hai, khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa

    Đây là trường hợp mà một người đã thực hiện một hành vi được coi là tôi phạm, nhưng trong quá trình tố tụng có sự thay đổi chính sách pháp luật mà hành vi này không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

    Ví dụ: Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã bỏ 11 tội so với Bộ luật Hình sự năm 1999, trong đó có các tội như: “Tội tảo hôn” được quy định tại Điều 148;“Tội hoạt động phỉ” được quy định tại Điều 83;… .Do đó, kể từ ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực pháp luật những người trước đây đã thực hiện một (hoặc nhiều) trong các hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là tội phạm (11 tội đã bỏ) mà sau ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực pháp luật mới bị phát hiện thì được coi là hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và mặc nhiên người có hành vi này được miễn trách nhiệm hình sự.

    Thứ ba, khi có quyết định đại xá

    Đại xá là việc miễn trách nhiệm hình sự đối với một loại tội phạm nhất định.

    Văn bản đại xá có hiệu lực đối với những hành vi phạm tội được nêu trong văn bản đó xảy ra trước khi ban hành văn bản đại xá thì được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu đã khởi tố, truy tố hoặc xét xử thì phải đình chỉ, nếu đã chấp hành xong hình phạt thì được coi là không có án tích.

    Thẩm quyền đại xá thuộc về Quốc hội và được ban hành nhân dịp những sự kiện trọng đại nhất của đất nước.

    Trên thực tế, Việt Nam mới có 2 lần đại xá, đó là vào năm 1946 và năm 1976.

    >>> Xem thêm: Ân xá, đặc xá, đại xá là gì? Các điều kiện để được ân xá, đặc xá, đại xá?

    Thứ tư, người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn trách nhiệm hình sự

    Trường hợp Tội gián điệp được quy định cụ thể tại Khoản 4 Điều 110 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, người đã nhận làm gián điệp nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao mà tự thú, thành khẩn khai báo thì đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự.

    Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự

    Đây là trường hợp không đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự. Ngoài căn cứ được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì đòi hỏi phải có sự đánh giá một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng về trường hợp nào được miễn, trường hợp nào không được miễn trách nhiệm hình sự.

    Trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự (Ảnh minh hoạ)
    Trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự (Ảnh minh hoạ)

    Thứ nhất, khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa

    Đây là trường hợp do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa chứ không phải do thay đổi chính sách pháp luật. Trường hợp này rất khó xác định và có nhiều quan điểm khác nhau. Thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng rất ít áp dụng trường hợp này để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.

    Thứ hai, khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa

    Bệnh hiểm nghèo là một bệnh nguy hiểm đến tính mạng. Nghị định 134/2016/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 18/2021/NĐ-CP đã quy định cụ thể danh mục các bệnh hiểm nghèo như: Ung thư, nhồi máu cơ tim lần đầu, teo cơ tiến triển,…

    Tuy nhiên không phải bệnh hiểm nghèo nào cũng được miễn trách nhiệm hình sự mà phải kèm theo điều kiện: không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.

    Thứ ba, trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận

    Người tự thú có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có đủ những điều kiện sau:

    • Tội phạm mà người tự thú đã thực hiện chưa bị phát hiện, tức là chưa ai biết có tội phạm xảy ra hoặc có biết nhưng chưa biết ai là thủ phạm.
    • Người tự thú phải khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm. Ở đây có nghĩa là khai đầy đủ tất cả hành vi phạm tội của mình cũng như hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác, không giấu giếm bất cứ một tình tiết nào của vụ án, giúp cơ quan điều tra phát hiện tội phạm. Ví dụ như: chỉ nơi ở của người đồng phạm khác hoặc dẫn cơ quan điều tra đi bắt người đồng phạm đang bỏ trốn, thu hồi tang vật,… Nếu khai không rõ ràng hoặc khai báo không đầy đủ thì không được coi là tự thú để làm căn cứ miễn trách nhiệm hình sự.
    • Cùng với việc tự thú, người tự thú phải cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm như: thông báo kịp thời cho người bị hại biết những gì đang đe dọa tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc tài sản để họ đề phòng; thu lại những nguồn nguy hiểm mà họ đã tạo ra cho người khác hoặc những lợi ích khác, trả lại tài sản đã chiếm đoạt…
    • Lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận thì mới có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

    Thứ tư, người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự

    Việc hòa giải giữa người phạm tội với người bị hại chỉ đối với hai loại tội phạm. Đó là tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng (không phân biệt tội phạm do cố ý hay vô ý) gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác.

    Tuy nhiên, nếu người bị hại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội mà cơ quan tiến hành tố tụng xét thấy không thể miễn được thì cũng được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, đồng thời giải thích cho người bị hại biết vì sao không miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội được.

    Thứ năm, người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp theo quy định và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự

    Điều này được quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đây là quy định riêng cho người dưới 18 tuổi, thể hiện chính sách khoan hồng và tạo điều kiện cho người dưới 18 tuổi theo nguyên tắc của Bộ luật này.

    Thứ sáu, những trường hợp có thể miễn trách nhiệm hình sự đối với từng tội phạm cụ thể

    Trong một số tội phạm cụ thể, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có quy định có thể miễn trách nhiệm hình sự, bao gồm:

    - Người nào trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định đã được giáo dục 2 lần và đã được tạo điều kiện ổn định cuộc sống hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc với số lượng từ 500 cây đến dưới 3.000 cây, nhưng đã tự nguyện phá bỏ, giao nộp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền trước khi thu hoạch, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 4 Điều 247 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

    - Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 7 Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

    - Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 6 Điều 365 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

    - Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 2 Điều 390 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

    Dịch vụ Luật sư tư vấn và bào chữa trong vụ án hình sự

    >>> Xem thêm: Quy định về xoá án tích trong Bộ luật hình sự

    >>> Xem thêm: Những vấn đề xoay quanh về đầu thú

    Trên đây là những chia sẻ của Luật Trường Minh Ngọc về vấn đề Trường hợp nào được miễn trách nhiệm hình sự. Bài viết chỉ mang tính tham khảo, không phải là ý kiến tư vấn để giải quyết một vụ việc cụ thể. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào cần được giải đáp, vui lòng liên hệ cho chúng tôi:

    Liên hệ qua Hotline:

    - Hotline 1: 093 694 1658 (zalo)

    - Hotline 2: 0939 593 486 (zalo)

    Liên hệ qua Facebook: Luật Trường Minh Ngọc

    Liên hệ trực tiếp tại văn phòng: Tầng 3, 68 – 70 Hoàng Diệu, Phường 13, Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh

    Liên hệ qua email: infotruongminhngoc@gmail.com

    *Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách pháp luật. Mọi thắc mắc, góp ý xin vui lòng liên hệ về email: infotruongminhngoc@gmail.com

    Zalo
    Hotline